Y Tế Nguyệt san số tháng 5-2005 có đăng bài viết về BS Ðặng Huy Lưu của BS Tam Thanh, trong đó có đoạn nói về lá đu đủ được dùng để trị ung thư và chính BS Lưu đã dùng thử, tuy chưa hẳn đã có công hiệu. Chúng tôi xin tổng hợp một số tài liệu về các đặc tính dinh dưỡng và trị liệu của loài cây nhiệt đới quý giá này.
Cây đu đủ có nguồn gốc từ vùng đồng bằng Nam Mỹ và ngay từ khi người Âu châu chưa đặt chân lên Châu Mỹ, cây đã được trồng tại hầu như khắp vùng. Thổ dân vùng Caribbean đã biết bọc thịt trong lá đu đủ để làm cho thịt trở nên mềm hơn, biết khía quả xanh lấy nhựa trị các bệnh ngoài da, và phụ nữ đã dùng quả xanh để giúp điều kinh. Người Tây ban Nha và Bồ đào nha đã nhanh chóng truyền cây đến khắp nơi họ chiếm cứ. Cây được trồng tại West Indies vào 1513, và từ 1583 đã đến với E. Indies qua ngõ Philippines (tại đây rễ đu đủ được sắc thành thuốc trị bệnh trĩ), sau đó từ Phillipines đến Trung Hoa, đem theo cái tên gọi cây của thổ dân Carib: ababai để thành papaya. Cây cũng đến Phi châu vào thời gian này và lan rộng qua các hải đảo Thái bình dương theo chân người Âu châu để đến 1800 trở thành cây lương thực trồng khắp vùng nhiệt đới. Hiện nay Hawaii và Nam Phi là hai nơi xuất cảng đu đủ chính.
Tên khoa học và các tên gọi khác:
– Carica papaya thuộc họ thực vật Caricaceae
– Các tên gọi khác: Mando (Ba Tây), Lichasa (Puerto Rico), Paw Paw (Vùng Caribbean), Melon Zapote (Mexico).
– Riêng tại Cuba, danh từ ‘Papaya’ được dùng như một tiếng lóng để chỉ bộ phận sinh dục phụ nữ, nên tại đây Ðu đủ được gọi theo phép lịch sự là Fruta Bomba.
– Tên paw paw, gây nhầm lẫn, vì còn được gọi cho một loại quả khác, khác hẳn đu đủ: Asimina triloba, một cây nhỏ tại Bắc Mỹ, tương cận với cây Mảng cầu xiêm! Quả dài cỡ 10 cm, và cong, phần thịt giống mảng cầu, màu vàng nhạt.
– Tên loài ‘Carica’ để chỉ một địa phương cổ trong vùng Tiểu Á: Karia
– Tên Anh ngữ ‘Papaya’ là do từ tên tại Carib: ababai
Ðặc tính thực vật:
Cây cao 6 đến 10m, mang 1 bó lá ở ngọn. Thân xốp mọc thẳng đứng mang nhiều vết thẹo cuống lá. Lá mọc so le, có cuống bọng dài, lớn đến 60 cm, mỗi phiến lá chia làm 8-9 thùy sâu hình chân vịt, mỗi thùy lại chia thêm một lần nữa như miếng vải bị xé rách. Hoa màu vàng nhạt, mọc thành chùm xim ở nách lá già. Hoa thường khác gốc nhưng cũng có cây vừa mang hoa đực, hoa cái và hoa lưỡng tính. Cụm hoa đực phân nhánh nhiều, có cuống dài. Cụm hoa cái chỉ gồm 2-3 hoa. Quả mọng to (phì quả), cỡ 25 x 12 cm, có thể nặng đến 2.5 kg, thịt dày màu thay đổi (khi chín) từ vàng đến cam nhạt, trong ruột có nhiều hạt đen. Quả đu đủ đặc biệt, không trữ chất bột (starch), chín từ trong ra ngoài, càng chín càng chứa nhiều carotenoids và các hợp chất tạo mùi thơm. Quả chín trở nên mềm khiến vị có vẻ ngọt hơn (tuy lượng chất đường không thực sự gia tăng).
Ðu đủ thường trổ hoa sau 5 tháng trồng (từ khi gieo hạt) vả cho quả sau 8 tháng, có thể mang 20-50 quả cùng một lúc. Cây cho quả liên tục trong 2 năm và sau đó được đốn bỏ.
Hai chủng chính được trồng tại các quốc gia Tây phương là:
– Hortus Gold (Nam Phi): cây đực và cái riêng biệt, cây đực được đốn bỏ sau khi hoa cái đã thụ phấn.
– Solo (Hawaii) có cây cái và cây lưỡng tính, thường chỉ giử lại cây cái.
Tại những nơi trồng đu đủ không chuyên, các chủng tự lai tạo và cho quả hình dạng khác biệt, có khi hình quả lê, có khi tròn, to bằng từ quả táo đến dài cỡ 30cm, nặng kỷ lục đến 9 kg.
Trên thị trường còn có những loài Carica khác như:
– Carica pubescens, loại đu đủ vùng núi cao, khí hậu lạnh; quả to nhưng không ngọt như loài nhiệt đới, chứa nhiều papain và carotenoids hơn, nhất là lycopene nên thịt của quả có màu đỏ hơn.
– Carica pentagona, còn gọi là babaco, có lẽ là một giống lai tạo, quả có thịt màu kem, vị hơi chua và không có hạt.
– Carica candamarcencis, củng là đu đủ vùng núi (Mountain papaya), lá nhám, quả nhỏ có khía, thơm mùi táo, rất chua khi còn non, có thể nấu chín hay làm mứt
Thành phần dinh dưỡng và hóa học:
* Thành phần dinh dưỡng của quả:
100 gram phần ăn được (bỏ hột và vỏ) chứa:
* Thành phần dinh dưỡng của Lá:
100 gram chứa
* Thành phần hóa học:
Ðu đủ chứa khá nhiều hợp chất như:
– Các men (enzymes): Nhựa chứa khá nhiều men (phân hóa tố) như papain, papaya glutamine cyclotransferase, glutaminyl-peptide-cyclo transferase, chitinase, papaya peptidase A và B, alpha-D-mannosidase và N-acetyl-beta-D-glucosaminidase.
Quả chứa beta-ga lactosidase I, II và III, và 1-amino cyclopropane-1-carboxylase (ACC) oxidase, phenol-D- glucosyltransferase.
– Carotenoids: Quả chứa beta-carotene, cryptoxanthin, violaxanthin và zeaxanthin.
– Alkaloids: Lá chứa Carpinine và Carpaine; Ruột thân có pseudo carpaine.
– Monoterpenoids: Quả chứa 4-terpineol, linalool và linalool oxide.
– Flavonoids: Chồi non chứa quercetin, myricetin và kaempferol.
– Các khoáng chất và vitamins: Xem phần trên, riêng chồi còn có alpha tocopherol.
– Glucosinolates: Trong hạt có benzyl isothiocyanate
100 gram hạt chứa 24.3 g chất đạm, 25.3 g chất dầu béo, 32.5 g carbohydrate tổng cộng, 17.0 g chất sơ thô, 0.09% tinh dầu dễ bay hơi.
Dầu béo của hạt chứa 16.97% acid béo bão hòa (gồm 11.38% palmitic, 5.25% stearic, 0.31% arachidic acid) và 78.63% acid béo chưa bão hòa (76.5% oleic và 2.13% linoleic).
(Các số liệu trên trích trong Handbook of Energy Crops của James Duke)
Ðu đủ dùng trong thực phẩm:
Quả đu-đủ giống Hawaii tương đối nhỏ, cỡ hai bàn tay úp lại nhưng vị rất ngon và ngọt. Ðu đủ giống Mexico có thể lớn bằng quả dưa hấu cỡ nhỏ nhưng vị lại nhạt hơn nhiều. Ngoài ra còn có nhiều giống cho quả có khối lượng và mầu sắc thay đổi, những giống thông dụng nhất có vỏ ngoài màu vàng hay vàng cam, hình dạng như một quả dưa hấu hay quả lê thuôn dài ra. Phần thịt đu đủ thường có màu cam nhạt, vị ngọt giống pha trộn giữa apricot và gừng(?). Giữa quả là những hột nhỏ có thể ăn được nhưng thường bị bỏ đi. Ðu đủ xanh cũng được dùng làm salad (bào sợi dài theo kiểu gỏi đu đủ của VN) hay sắt mỏng ngâm giấm. Hạt có thể ăn sống hay nghiền nát có vị gần như mù tạt. Ðu đủ khô, thật ra không có vị ngọt, vị nếu có là do thêm đường. Ðu đủ ngào mật (honey-sweetened papaya) thật ra là ‘ăn gian’ vì quả đu đủ chỉ được nhúng trong dung dịch đường có thêm chút mật.
Ðu đủ trong công nghiệp:
Ngoài vai trò thực phẩm (quả), cây đu đủ còn được dùng trong nhiều công nghiệp khác, nhất là do papain trích từ mủ (nhựa).
Vỏ cây có thể dùng bện giây. Lá dùng thay savon, để tẩy vết dơ. Hoa làm thực phẫm ở Java. Nhựa có nhiều công dụng do khả năng làm đông đặc sữa và ly giải protein. Papain có hoạt tính trong vùng pH khá rộng, dùng làm thuốc trị khó tiêu, pha thành dung dịch trị sưng tonsil. Khoảng 80% bia sản xuất tại Hoa Kỳ dùng papain để làm trong (papain kết tủa các protein). Papain được dùng để loại chất gôm khỏi lụa thiên nhiên. Tuy nhiên đa số papain được nhập vào Hoa Kỳ là để làm mềm thịt và làm kẹo chewing-gum. Papain còn được dùng để trích dầu từ gan cá tuna.
Trong kỹ nghệ mỹ phẩm, papain được dùng trong kem đánh răng, shampoo, chế phẩm lột da mặt (face-lifting).
Papin được dùng để làm sạch lụa và bông gòn trước khi nhuộm màu.
(Xin đọc thêm về ung dụng của Papain trong y học trong Thuốc Nam trên Ðất Mỹ tập 1 của cùng tác giả)
Ðặc tính dược học:
* Tác dụng hạn chế sinh sản
Khả năng hạn chế sinh sản của Ðu đủ được thử nghiệm bằng cách cho chuột đang thì sinh sản và đang mang thai ăn các phần khác nhau của cây đu đủ. Chuột được cho ăn tự nhiên, không bị thúc ép và kết quả ghi nhận quả đu đủ xanh có tác dụng làm ngưng chu kỳ rụng trứng và gây trụy thai Hoạt tính này giảm khi quả chín và progesterone thêm vào thực phẩm giúp tái tạo sự cân bằng, các bào thai chưa bị trụy tiếp tục phát triển bình thường (Journal of Physiology and Pharmacology Số 22-1978). Chuột đực, bạch tạng được cho dùng 0.5 mg dịch chiết từ hạt/ kg trọng lượng cơ thể trong 7 ngày cho thấy luợng protein tổng cộng và lượng sialic acid trong tinh dịch giảm hạ đồng thời tinh trùng bị đông tụ thành mảng. So sánh với chuột đối chứng cho thấy hoạt tính phosphatase trong mảng tinh trùng sụt giảm. Ngoài ra mức độ phosphorus vô cơ trong tinh dịch cũng tụt giảm (Asian Journal of Andrology Số 3-2001).
Các dịch chiết từ hạt đu đủ bằng chloroform, benzen, methanol và ethylacetate được thử nghiệm về hoạt tính trên độ di động của tinh trùng ghi nhận tác động diệt tinh trùng, tác động này tùy thuộc vào liều lượng: sự di động của tinh trùng giảm nhanh xuống còn < 20% và ngưng hẳn sau 20-25 phút ở mọi nồng độ thử nghiệm. Xét nghiệm qua kính hiển vi ghi nhận có sự thay đổi rõ rệt nơi màng plasma ở đầu tinh trùng và ở giữa thân tinh trùng, các tinh trùng này mất hẳn khả năng truyền giống (Asian Journal of Andrology Số 2-2000).
Phần chiết bằng benzen khi thử trên chuột bạch tạng cho thấy: trọng lượng chuột, trọng lượng dịch hoàn, tinh nang, nhiếp hộ tuyến không thay đổi, nhưng độ di động của tinh trùng, số lượng tinh trùng đều giảm và số tinh trùng dị dạng gia tăng kéo dài trong 60-150 ngày.(Phytomedicine Số 7- 2000).
Phần chiết bằng chloroform được thử trên thỏ, mỗi con cho dùng liều 50 mg/ngày trong 150 ngày ghi nhận: không có thay đổi về các thông số sinh học như trọng lượng cơ thể nhưng phần chiết bằng benzen gây sự bần tinh sau 15 ngày.
Nhiều thử nghiệm khác dùng dịch chiết thô từ hạt bằng nước đều ghi nhận những biến đổi về hình dạng của tinh trùng, mất khả năng di động và tạo ra vô sinh. Tuy nhiên thú vật thử nghiệm có thể trở về trạng thái bình thường 45 ngày sau khi ngưng dùng dịch chiết (Planta Medica Số 60-1994).
* Tác dụng trên tử cung:
Trích tinh nhựa đu đủ (Papaya latex extract=PLE) được thử nghiệm trên tử cung chuột (in vitro) vào những giai đoạn khác nhau của chu kỳ rụng trứng và giai đoạn mang thai: PLE gây gia tăng sự co thắt của tử cung trong giai đoạn trước khi rụng trứng và rụng trứng.Tác dụng gây co thắt cao nhất ở giai đoạn cuối của kỳ mang thai, tương ứng với lúc nồng độ oestrogen lên cao nhất. Nhựa đu đủ được cho là có chứa một hoạt chất gây co thắt tử cung, hoạt chất này có thể là một hỗn hợp các men, alkaloids tác động trên tử cung qua các thụ thể alpha-adrenergic. (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001).
* Tác dụng lợi tiểu:
Dịch chiết từ Rễ đu đủ, cho chuột uống liều 10mg/kg, gây gia tăng khối lượng nước tiểu tống xuất ra ngoài (p< 0.01), so sánh được với hydrochlorothiazide, và sự tống xuất các chất điện giải trong nước tiểu cũng có các thông số tương tự. Hoạt tính này được giải thích là do ở lượng muối khoáng tương đối cao trong dịch chiết (J of Ethnopharmacology Số 75-2001).
* Tác dụng ha huyết áp:
Thử nghiệm trên chuột đực, bạch tạng, loài Wistar: chia chuột thành 3 nhóm (mỗi nhóm 15 con), nhóm cao huyết áp do thận, cao huết áp do muối-DOCA và nhóm bình thướng. Mỗi nhóm lại chia thành nhóm phụ: không chữa trị, trị bằng hydralazine và nhóm trị bằng dịch chiết từ quả đu đủ. Kết quả ghi nhận dịch chiết (20 mg/kg, dùng IV) có hoạt tính làm hạ huyếp áp tương đương với hydralazine (200 microg/100g, dùng IV), và dịch chiết còn làm hạ huyết áp mạnh hơn hydrazine (28%) nơi nhóm chuột có huyết áp cao!
Ngoài ra, thử nghiệm ‘in vitro’ trên động mạch cô lập của thỏ (vành, thận, xương sống) ghi nhận dịch chiết (10 microg/ml) gây sự giãn nở cơ mạch. Các kết quả này cho rằng nước ép từ quả đu đủ gây hạ huyết áp do hoãt tính trên các thụ thể alpha-adrenoceptive.(Phytotherapy Research Số 14-2000).
* Tác dụng hạ lipid (mỡ) trong máu:
Chất pectin trong đu đủ có hoạt tính làm hạ mỡ trong máu khi thử trên chuột, do làm giảm sự hấp thu, gia tăng sự phân hủy và loại trừ lipid khỏi máu. Sự tăng hoạt của lecithin cholesterol acyl transferase (LCAT) trong huyết tương có thể làm giảm mức độ cholesterol và sự tăng hoạt của lipoprotein lipase trong các mô mỡ và trong tim có thễ gây ra sự giãm triglycerides trong máu khi cho chuột ăn pectin Journal of Food Science and Technology Số 34-1997).
* Khả năng trị ung loét bao tử:
Nhựa đu đủ bảo vệ khá hữu hiệu bao tử chống lại các chất gây ung loét bao tử và chống lại sự bài tiết acid gây ra bởi histamin. Nhựa trích từ quả xanh được chứng minh là có hoạt tính cao nhất và papain trong nhựa là chất giúp đu đủ có được khả năng này (American Journal of Chinese Medicine Số 9-1981).
* Tác dụng trị sán lãi:
Hoạt tính trị sán lãi của nhựa đu đủ đã được thử nghiệm để diệt sán lãi nơi thú vật:
– Tác dụng trên Heligmosomoides polygyrus (một loài giun) nơi chuột đã được chứng minh (Journal of Ethnopharmacology Số 48-1995) bằng thử nghiệm có dùng đối chứng, và dùng nhiều liều lượng khác nhau. Ða số giun lãi bị diệt sau 3 ngày dùng thuốc ở liều từ 4-8 g nhựa/ kg.
– Tác dụng trên Asaris sum (lãi heo) ghi nhận liều 4 g và 8 g nhựa/ kg có khả năng diệt được 80% và 100% lãi sau 7 ngày trị liệu (Journal of Helminthology Số 58-1994).
– Dịch chiết từ hạt đu đủ đã được thử nghiệm để trị sán lãi loại Caenorhabdi tis elegans. Kết quả cho thấy trong hạt có benzyl isothiocynate (BITC) là hoạt chất chính có tác dụng diệt giun-sán (Phytochemistry Số 57-2001).
– Các phần khác nhau của cây cũng đã được thử nghiệm về hoạt tính diệt giun sán loại Ascaridia galli nhiễm nơi gia cầm: hoạt tính của các dịch chiết từ đu đủ còn mạnh hơn cả piperazine. Cơ chế tác động của BITC đã được so sánh với mebendazole (MBZ) trên Ascaridia galli: cả 2 chất BITC (liều 100 và 300 microM) và MBZ (liều 3 và 10 microM) đều ngăn chặn tiến trình sử dụng glucose trong tế bào của ký sinh trùng gây rối loạn sự biến dưỡng năng lượng và diệt được ký sinh trùng (Fitoterapia Số 62- 1991).
* Khả năng làm lành vết thương:
Tại Jamaica, quả đu đủ đã được dùng như một loại thuốc đắp để trị các chứng ung loét ngoài da, và đu đủ xanh được xem là có khả năng giúp vết thương mau lành hơn và giảm mùi hôi gây ra do lở loét. Ðiểm đặc biệt của phương thức trị liệu này là tuy vấn đề vô trùng và vệ sinh cần thiết để săn sóc vết thương không theo các tiêu chuẩn y-học nhưng không thấy có những trường hợp bị nhiễm trùng xẩy ra (West Indian Medical Journal Số 49-2000). Quả đu đủ cũng được dùng tại Khoa Nhi BV Royal Victoria, Banjul (Gambia) để đắp trị các vết phỏng, cho kết quả rất tốt, vết thương mau lành, không tạo thẹo. Cơ chế hoạt tính được giải thích là do các men chymopapain và papain có khả năng ly giải protein và do hoạt tính kháng sinh của đu-đủ (Burns Số 25-1999). Một số nghiên cứu tại các quốc gia khác đều xác nhận tính càch trị liệu này: ÐH Y Khoa Quốc gia Nga, Moscow giải thích khả năng làm lành vết thương là do ở tác dụng chống oxy-hóa của đu đủ khiến giảm được tổn hại nơi các mô do các phản ứng oxyhóa (Bulletin of Experimental Biology Medicine Số 137-2004). Ðu đủ có công hiệu khi dùng trị các vết thương cho các nhà lực sĩ thể thao: giúp giảm sưng và giúp mau hồi phục (Current Therapy research Clinical Experience Số 11-1969).
* Hoạt tính kháng sinh, kháng nấm:
Nhựa đu đủ ức chế sự tăng trưởng của nấm Candida albicans khi thêm vào môi trường cấy nấm. Sự ức chế xẩy ra ở giai đoạn tăng trưởng lũy tiến và do ở tác động gây phân hủy vách tế bào nấm bằng cách gây rối loạn thành phần polysaccharides của vách tế bào (Mycoses Số 39-1996). Hỗn hợp nhựa đu đủ (0.41 mg protein/ml) và fluconazole (2 microg/ml) có tác dụng cộng lực trên nấm Candida albicans (Mycoses Số 40-1997).
Các phần khác nhau của cây đu đủ có hoạt tính kháng sinh trên một số vi khuẩn như Bacillus subtilis, Enterobacter cloacea, Escherichia coli, Salmonella typhi, S.aureus, Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa và Klebsiella pneumoniae. Quả chín và xanh đều có hoạt tính diệt vi khuẩn trên S.aureus, B.cereus, E.coli, Pseudomonas và Shigella flexneri. Dịch chiết hữu hiệu trên vi khuẩn gram-dương hơn là gram-âm (Journal of Natural Products Số 45- 1982). Nghiên cứu tại ÐH West Indies, Kingston (Jamaica) ghi nhận không có sự khác biệt về hoạt tính kháng sinh giữa quả xanh, quả vừa chín và quả thật chín. Hạt có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất theo thứ tự (giảm dần) trên các vi khuẩn B.cereus> E coli > S. feacalis > S.aureus > P.vulgaris > S flexneri (West Indian Medical Jour nal Số 52-2003).
Dịch chiết từ hạt diệt được ký sinh trùng Entamoeba (in vitro)(Journal of Ethnopharmacoly Số 61-1998).
* Tác dụng trị bướu ung thư:
Hoa đu đủ có hoạt tính khá mạnh (in vitro) gây hủy diệt tế bào ung thư khi thử nghiệm bằng phương pháp phân tích immunoblotting trên các tế bào Raji bị gây nhiễm genome siêu vi Epstein-Barr (EBV). Các phản ứng ức chế xẩy ra nơi các tế bào ung thư thanh quản loại carcinoma (Natural Product Science Số 6-2000). Dịch chiết từ hoa bằng ethanol đã được thử nghiệm về khả năng diệt tế bào ung thư trên các tế bào Raji gây ra bởi phorbol 12-myristate 13 acetate và sodium butyrate, với các kết quả khả quan (Natural Product Science Số 5-1999).
Papain trong đu đủ đã được thử nghiệm chung với các men phân giải protein (protease) như bromelaine, trysin, chymotrysine để trị một số loại ung thư trong phương pháp enzyme therapy. Các kết quả nghiên cứu ghi nhận Enzyme therapy tuy không trị được ung thư nhưng có tác dụng ức chế giai đoạn metastasis và kéo dài thêm thời gian sinh tồn, nhất là trường hợp ung thư vú (Natural Compounds in Cancer Therapy-John Boik) (Xin xem bài Ðiều trị Ung thư bằng enzymes)
(Tác dụng trị ung thư của lá đu đủ được phổ biến vào năm 1992 qua một bài báo đăng trên tập san Gold Coast Bulletin ở Gold Coast, Queenland Australia. Theo bài báo thì một bệnh nhân tên là Sheldon,70 tuổi, bị ung thư phổi (1978), BS cho biết chỉ sống được 6 tháng, do sự chỉ dẫn của thổ dân, ông đã dùng lá đu đủ tươi, cắt thánh cọng nhỏ, thêm nươc, sắc lửa nhỏ trong 2 giờ, rồi gạn lấy nước uống liên tục ngày 3 lần, mỗi lần 200 ml. Sau 2 tháng, các BS tái khám thấy bướu ung thư hoàn toàn biến mất (?). Tin được loan trên Gold Coast Bulletin (tháng 5 năm 1978) và sau đó thêm 16 bệnh nhân khỏi bệnh nhở phương pháp này. Trường hợp thứ nhì được ghi là Bênh nhân June Bennett, 63 tuổi, ở Posville Beach (Queensland) cũng bị ung thư phổi, BS cho biết chỉ sống được 7 tháng, Bà dùng lá đu đũ, uống liên tục trong 3 tháng, ngưng 3 tháng, rồi uống lại 3 tháng bệnh ung thư phổi lành hẳn(?). Sau đó vài năm bà lại được chẩn đoán là bị ung thư xương, chỉ sống được 2 tháng bà lại uống nước lá đu đủ và lại tiếp tục sống!)
* Hoạt tính thu nhặt các gốc tự do:
Một đặc chế làm từ đu đủ len men (PS 501) đã được thử nghiệm về hoạt tính trên các gốc tự do và lipid peroxidase, hoạt tính được đo lường bằng phương pháp đo quang phổ ESR (electron sin resonance spectrometry). PS 501, ở liều 50mg/ml thu nhặt được 80% các gốc hydroxyl do các chất phản ứng Fenton tạo ra, trị số IC50 được định là ở liều 12.5 mg/ml. Khi cho uống liên tục trong 4 tuần, mức độ lipid peroxyde giảm hạ trong phần ipsilateral não 30 phút sau khi chích dung dịch sắt vào phần vỏ não bên trái (thử trên chuột), đồng thời hoạt động của superoxyde dismutase tại vùng vỏ não và tuyến yên lại gia tăng, do đó PS 501 rất có thể có tác dụng chống-oxyhóa và giúp ngừa một số bệnh liên hệ đến hệ thần kinh của người cao niên (các tổn hại về thần kinh gây ra bởi các gốc tự do). Trong nghiên cứu về tác dụng của PS 501 trên các hư hại về DNA và về các mô tế bào óc nơi chuột bị gây động kinh bằng 8-hydroxy-2′-desoxy guanosine (8-OHdG là chất chính tạo ra khi DNA bị hư hại do oxyhóa). Kết quả ghi nhận: mức 8-OHdG trong khu vực ‘ipsilateral’ của não bộ gia tăng 30 phút sau khi chích dung dịch ferric chloride vào vùng não bộ vận động bên trái, nhưng nếu cho chuột uống PS 501 trước khi chích, não được bảo vệ và 8-OHdG không gia tăng (Journal of Brain Science Số 25 1999).
Một sản phẩm ‘hổ trợ sức khỏe’ tại Nhật: ‘Bio-Normaliser’ sản xuất từ đu-đủ lên men, cho thấy có một số hoạt tính sinh học trị liệu trong một số trường hợp bệnh lý kể cả ung thư và suy yếu miễn nhiễm. Bio-Normaliser ngăn chặn hữu hiệu sự tạo thành các gốc tự do ngoại tế bào và làm giảm được sự sản xuất superoxide kích ứng bởi menadione nơi tế bào erythrocytes, ức chế hoạt động của gốc oxy phóng thích bởi thực bào (neutrophils và macrophages). (Nutrition Số 11-1995)
Liều lượng và độc tính:
* Liều thông thường:
– Lá khô: 50-120 mg
– Nhựa khô: 120-240 mg
– Bột tán từ hạt: 0.5-1 gram.
* Ðộc tính:
– Ðu đủ được dùng làm thực phẩm trên khắp thế giới và không gây bất cứ vấn đề sức khoẻ nào khi dùng theo các liều an toàn trên.
– Phụ nữ có thai nên thận trọng vì nhựng tác động trên tử cung.
Có thể có sự tương tác giữa warfarin và liều cao các thành phần đu đủ.
– Lá được American Botanical Council xếp vào Hạng I nghĩa là an toàn khi dùng theo liều quy định.
– Liều uống papain cao đến 800 mg/kg không gây ảnh hưởng trên sự phát triển của bào thai (chuột) và không gây độc hại cho chuột cái thử nghiệm.
– Dịch chiết bằng Ethanol/Nước (1:1) từ phần cây trên mặt đất, chích qua màng phúc toan chuột, có liều LD50 > 1.0g/kg.
– Dịch chiết bằng ethanol thô từ quả xanh có liều LD50 = 325 mg/ kg (chích qua màng phúc toan)
Ðu đủ trong các Dược học cổ truyền:
* Dược học Ayurveda:
Theo Dược học Ayurveda (Ấn độ), Ðu đủ hay papita (tiếng Phạn là Chirbhita) có tác dụng ổn định kapha và vata. Tại vùng Nam Ấn độ, quả được cho là có tác dụng điều kinh, ăn để tạo kinh nguyệt. Nhựa được đắp vào đầu tử cung để trục thai (thường trộn chung với nhựa cây Ferula nartex). Tại Bắc Ấn, hạt dùng làm thuốc trị sán lãi, dịch chiết từ hạt dùng làm thuốc trị phong thấp và giảm đau.
* Dược học cổ truyền Việt Nam:
Tại Việt Nam, Ðu đủ là một cây rất hữu dụng, ngoài vai trò thực phẩm cây còn được dùng để trị một số bệnh như:
– Trị mộng tinh, hoạt tinh: dùng quả đu-đủ, khoét đầu, cho đường phèn vào, nướng đến chín. Bỏ vỏ cháy ăn phần thịt cả hột.
– Trị ung thư phổi, ung thư vú: Nấu lá tươi cả cuống uống ngày 3 lần, mỗi lần 600 ml, uống liên tục 15-20 ngày.
– Trị ho gà: Dùng hoa đu đủ đực (30 gram), nấu chín lấy nước uống, có thể thêm đường
* Dược học cổ truyền Trung Hoa:
Tại Trung Hoa, Ðu đủ được gọi là fan mu gua (Phương mộc qua), fan gua hay mu gua (mộc qua) được xem là vị ngọt, không nóng, không hàn.
Tên mu-gua=mộc qua có thể gây nhầm lẫn vì quả quince (Chaenomeles lagenaria) cũng được gọi trong Danh Y Biệt lục của Ðào hoằng Cảnh là mộc qua. Phương = từ ngoại quốc, để chỉ quả có nguồn gốc từ nước ngoài
Ðu đủ được dùng trong các trường hợp:
– Ăn không tiêu, đầy hơi làm đau tức ngực: Dùng 30 gram đu đủ ngâm giấm hay 60 gram đu đủ tươi vừa chín tới, ăn 2 lần mỗi ngày.
– Sản phụ thiếu sữa: Dùng 500 gram đu đủ vừa chín, hầm chung với 2 chân giò heo, bổ xương, ăn hàng ngày trong 3 ngày liên tiếp.
– Ho dai dẳng, nhược sức: Dùng 250-500 gram đu đủ tươi, hấp chín, ăn mỗi ngày.
– Chàm, Giòi ăn, lở ngoài da, lở loét kẽ chân: Lấy 1 quả đu đủ xanh chừng 400 gram, nghiền nát trộn với 30 gram giấm và 30 gram muối ăn, vắt lấy nước đắp vào nơi vết thương.
* Vài thành phẩm Ðu đủ trên thị trường Hoa Kỳ:
Tại Hoa Kỳ có một số chế phẩm từ Ðu đủ được bán trên thị trường ‘Sản phẩm hỗ trợ sức khoẻ’:
– Các sản phẩm có papain: Papaya enzyme, Papaya enzyme with chlorophyll thường dưới dạng viên nhai (chewable) 25 mg, viên nén (tablet) 5mg.
– Các sản phẩm từ lá: Papaya leaf.
(Papaya enzyme thường là một hỗn hợp gồm Papain, Chymopapain A và B, Papaya peptidase A).
Papaya leaf chứa 2% papain và carpain (alkaloid có thể gây tim đập chậm, và ức chế thần kinh trung ương gây các hiệu ứng loại paralytic)
Ngoài ra còn có loại viên phối hợp chứa 250 mg bột lá đu đủ,150 mg bột cô đặc nước ép từ dứa và 10 mg papin.
Tài liệu sử dụng:
– Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson).
– Tropical Plant Database (Rain-Tree Nutrition).
– Fruits as Medicine (Dai Yin-fang & Liu Cheng-jun).
– The Healing Herbs (Michael Castleman).
– Whole Foods Companion (Dianne Onstad).
– The Oxford Companion to Food (Alain Davidson).
– Professional’s Handbook of Complementary & Alternative Medi cines (C. Fetrow & J. Avila).
– PDR for Herbal Medicines.
– Natural Medicines Comprehensive Database.
Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học – DS. Trần Việt Hưng